NGUỒN GỐC XUẤT XỨ, ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA CÂY CÀ PHÊ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
Từ lâu, cà phê đã là loại cây trồng được xuất khẩu nhiều của Việt Nam, có giá thành cao, được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Việt Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới, sau Brazil, với lượng cà phê năng suất cao, chất lượng tốt. Thế nhưng vì một số đặc điểm mà cà phê trồng ở một số vùng của Việt Nam ví dụ như Tây Nguyên thì nếu muốn tăng năng suất và chất lượng cà phê đạt chuẩn thì không chỉ cần trồng theo cách thông thường. Ở những vùng nắng gắt, người ta sử dụng lưới che nắng cho cây cà phê để giảm lượng ánh sáng chiếu vào, đảm bảo chất lượng cà phê xuất ra theo đúng yêu cầu.
Bạn đang xem: Đặc điểm sinh thái của cây cà phê
Cây cà phê
Cây cà phê là cây công nghiệp lâu năm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân các tỉnh thành Tây nguyên. Cây cà phê có 3 loại chính là cà phê chè, cà phê vối và cà phê mít. Mỗi loại đều cần có điều kiện sinh thái khác nhau để có thể sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
Cà phê là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảo (Rubiaceae). Họ này bao gồm khoảng 500 chi khác nhau với trên 6.000 loài cây nhiệt đới.
Chi cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên, không phải loài nào cũng chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy. Chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hay Coffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea liberica và Coffea excelsa (ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng không đáng kể.
Cấu tạo và đặc trưng của cây cà phê
Thân cà phê

Cây cà phê chè có thể cao tới 6 m, cà phê vối tới 10 m. Tuy nhiên ở các trang trại cà phê người ta thường phải cắt tỉa để giữ được độ cao từ 2-4 m, thuận lợi cho việc thu hoạch. Cây cà phê có cành thon dài, lá cuống ngắn, xanh đậm, hình oval. Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn. Chiều dài của lá khoảng 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Rễ cây cà phê là loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1 đến 2,5 m với rất nhiều rễ phụ tỏa ra xung quanh làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng nuôi cây.
Hoa cà phê
Hoa cà phê màu trắng, có năm cánh, thường nở thành chùm đôi hoặc chùm ba. Màu hoa và hương hoa dễ làm ta liên tưởng tới hoa nhài. Hoa chỉ nở trong vòng 3 đến 4 ngày và thời gian thụ phấn chỉ vài ba tiếng. Một cây cà phê trưởng thành có từ 30.000 đến 40.000 bông hoa.
Ngay từ khi cây cà phê ra hoa kết quả người ta đã có những đánh giá đầu tiên về vụ mùa cà phê. Ở các nước sản xuất cà phê lớn điều này đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra những nhận định về giá cả và thị trường. Tuy vậy những đợt rét đậm hoặc hạn hán có thể làm đảo lộn mọi sự tính toán và đẩy thị trường vào tình thế hoàn toàn khác.
Quả cà phê
Cà phê là loài cây tự thụ phấn, do đó gió và côn trùng có ảnh hưởng lớn tới quá trình sinh sản của cây. Sau khi thụ phấn quả sẽ phát triển trong 7 đến 9 tháng và có hình bầu dục, bề ngoài giống như quả anh đào. Trong thời gian chín, màu sắc của quả thay đổi từ xanh sang vàng rồi cuối cùng là đỏ. Quả có màu đen khi đã chín. Do thời gian đâm hoa kết trái lâu như vậy mà một vụ cà phê kéo dài gần một năm trời và có thể xảy ra trường hợp trên một cây vừa có hoa, vừa có quả.
Thông thường một quả cà phê chứa hai hạt. Chúng được bao bọc bởi lớp thịt quả bên ngoài. Hai hạt cà phê nằm ép sát vào nhau. Mặt tiếp xúc giữa chúng là mặt phẳng, mặt hướng ra bên ngoài có hình vòng cung. Mỗi hạt còn được bảo vệ bởi hai lớp màng mỏng: một lớp màu trắng, bám chặt lấy vỏ hạt; một lớp màu vàng rời rạc hơn bọc ở bên ngoài. Hạt có thể có hình tròn hoặc dài, lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh. Thỉnh thoảng cũng gặp nhưng quả chỉ có một hạt (do chỉ có một nhân hoặc do hai hạt bị dính lại thành một).

Niên vụ (năm sản xuất)
Ở Việt Nam, nước hiện đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối (robusta), niên vụ được tính từ tháng 10 đến hết tháng 9 năm sau (theo dương lịch). Thời gian thu hoạch tại các tỉnh Tây Nguyên (là nơi sản xuất khoảng 80 % tổng sản lượng của Việt Nam) thường kéo dài trong 4 tháng, tính từ cuối tháng 10 đến hết tháng 1.
Ngay sau thu hoạch là thời gian nông dân trồng cà phê vối bắt đầu tưới nước cho cây và bón phân, chia thành nhiều đợt ngắn. Giai đoạn này kéo dài đến tháng 4 hàng năm.
Các loài chọn lọc
Coffea arabica - Cà phê chè (Arabica)
Coffea benghalensis - Cà phê Bengal
Coffea canephora - cà phê vối (Robusta)
Coffea congensis - cà phê Congo
Coffea dewevrei - cà phê Excelsa
Coffea excelsa - cà phê Liberia/cà phê mít
Coffea gallienii - không chứa caffein
Coffea bonnieri - không chứa caffein
Coffea mogeneti - không chứa caffein
Coffea liberica - cà phê Liberia/cà phê mít
Coffea stenophylla - cà phê Sierra Leon
Coffea magnistipula
Tác dụng, vai trò của cây cà phê
Quả cây cà phê tạo ra một thức uống có nhiều tác dụng tốt như làm cho chúng ta thoải mái và dễ tỉnh hơn, làm tiêu mỡ, làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen và chữa được dị ứng, giúp giảm đau, bảo vệ khỏi các bệnh về gan, kích thích hoạt động trí óc, làm tăng sức mạnh của cơ bắp, chống lại bệnh tiểu đường type II. Chính vì vậy, cà phê luôn là một món đồ uống hấp dẫn, đặc biệt là giới trẻ với lối sống hiện đại.
Cây cà phê ở Việt Nam luôn là cây thế mạnh, đem lại nguồn lời lớn về kinh tế cho nước nhà.
Lưới che nắng cho cây cà phê
Cây cà phê vốn thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn kiến thiết cơ bản. Thời điểm cần căng lưới che nắng cho cà phê chính là lúc gieo ươm cho đến khi cây đủ trưởng thành để phát triển độc lập ngoài môi trường tự nhiên.
Hiện nay ở Việt Nam ở hai phương pháp gieo ươm là gieo trong túi bầu và gieo vào luống đất. Cả hai phương pháp này đều yêu cầu được thực hiện trong vườn ươm có giàn lưới che nắng để tiện chăm sóc và sự phát triển cho cây. Hình thức gieo cà phê vào luống đất phù hợp với các nhà ươm tư nhân diện tích nhỏ vì tiết kiệm chi phí làm bầu, tuy nhiên hình thức này gây khó khăn cho việc vận chuyển và bón phân.

Thời gian đầu mới ươm cây con cần được che mát tuyệt đối, ngoài việc căng lưới che nắng cho vườn ươm cần hỗ trợ thêm mái liếp hoặc lá dừa kết hợp tưới nước thường xuyên. Vườn ươm cần tưới 4 – 5 lần / ngày vào mùa khô và 2 -3 ngày tưới 1 lần vào mùa mưa trong nửa tháng đầu gieo ươm. Thời gian sau điều chỉnh lại độ ẩm tùy thuộc vào sự phát triển của cây và thời tiết.
Lưới che nắng phải đảm bảo đúng độ che sáng yêu cầu, vì vậy các nhà ươm nên sử dụng lưới che nắng Thái Lan đúng tiêu chuẩn. Khi cây đã có 2 – 3 cặp lá cây cần độ che phủ là 70%, khi cây có 4- 5 cặp lá nhà ươm điều chỉnh khoảng 50 % che mát để cây làm quen dần với ánh sáng mặt trời. Cây con sẽ được đem ra ngoài vườn ươm khi được 5 – 6 cặp lá, cao 20 – 30mm và không có sâu bệnh.
Lưới che nắng Trần Gia
Lưới che nắng Trần Gia với nhiều loại cùng nhiều giá thành, lưới Thái Lan, lưới Đài Loan, lưới Việt Nam. Mỗi loại lưới đều có một tính chất riêng, tùy thuộc vào mục đích sử dụng và yêu cầu của người sử dụng.
Lưới che nắng Thái Lan là loại có độ bền cao nhất, phù hợp với việc che phủ lâu năm (lên đến 5 năm), thay vào đó giá thành cũng cao hơn nhưng nếu chia ra cho chi phí mỗi năm thì lại thấp hơn các loại lưới khác.
Lưới che nắng Việt Nam có giá thành thấp, chất lượng tốt nhưng độ bền không cao bằng lưới Thái Lan (khoảng 3 năm), bù lại đối với những trường hợp cần sử dụng lưới che nắng trong khoảng thời gian ngắn thì phù hợp hơn, không quá tốn kém. Ngoài ra, lưới che nắng Đài Loan có độ thẩm mỹ hơn, các mắt lưới đều, đẹp, chắc chắn, độ bền lẫn giá thành đều nằm ở khoảng giữa so với lưới Thái Lan và Việt Nam.

Dưới đây là các thông số kỹ thuật của lưới che nắng Trần Gia:
Lưới che nắng Thái Lan được ưa chuộng nhiều bởi chất lượng cao, được phân loại bởi khả năng che chắn nắng là 50%, 60%, 70%, và 80%. Các thông số của loại lưới này là tương đương nhau, cụ thể:
– Màu sắc: xanh lá, xanh dương
– Chất liệu: HDPE
– Kích thước: 2m x 100m, 3m x50m, 4m x 50m
– Độ bền: lên đến 5 năm
Lưới che nắng Việt Nam là sản phẩm chất lượng được sản xuất theo công nghệ tiên tiến từ Thái Lan, có độ canh tranh cao với hàng ngoại địa từ Trung Quốc, có độ che phủ từ 50 – 60% với các thông số:
– Màu sắc: đen, xanh lá
– Chất liệu:HDPE
– Kích thước: 2m x 100m
– Độ bền: lên đến 3 năm
Lưới che nắng có xuất xứ Đài Loan được ưa chuộng bởi có tình thẩm mỹ cao, rất hay được sử dụng để che chắn ánh nắng sân nhà, trường học, khu vực vui chơi như công viên hay tại các hồ bơi, có tỷ lệ che phủ lên đến 85%
– Màu sắc: đen, bạc
– Chất liệu chính là HDPE
– Kích thước: khổ 2m còn độ dài tùy vào yêu cầu đặt của khách hàng
– Độ bền: lên đến 3 năm
Lựa chọn lưới che nắng phù hợp có thể vừa đảm bảo được độ râm mát, lại giúp vườn cây hấp thụ ánh sáng vừa đủ để sinh trưởng và phát triển tốt nhất. Sử dụng lưới che nắng thích hợp sẽ giúp tiết kiệm chi phí và tạo môi trường cho cây cũng như điều kiện làm việc tốt cho người lao động.
" /> Theo một truyền thuyết đã ghi nhận được trên giấy vào năm 1671, người chăn dê ở Kaffa ( thuộcEthiopiangày nay) phát hiện ra đàn dê đã ăn một loại quả cây lạ hoa trắng và quả màu đỏ sau đó có những biểu hiện lạ thường. Họ đã đem chuyện này kể với các thầy tu và xác nhận công hiệu của nó.">




Theo một truyền thuyết đã ghi nhận được trên giấy vào năm 1671, người chăn dê ở Kaffa ( thuộcEthiopiangày nay) phát hiện ra đàn dê đã ăn một loại quả cây lạ hoa trắng và quả màu đỏ sau đó có những biểu hiện lạ thường. Họ đã đem chuyện này kể với các thầy tu và xác nhận công hiệu của nó.
Đó là truyền thuyết, còn những di chỉ khảo cổ, những ghi chép của con người còn lại cho đến ngày nay. Người ta biết rằng, Kaffa (Ethiopia ngày nay) chính là vùng đất khởi nguyên của cây cà phê, từ thế kỷ thứ IX đã có những ghi nhận ở đây, đến thế kỷ XIV những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang xứ Ả Rập. Nhưng tới tận thế kỷ XV người ta mới biết rang cà phê lên và sử dụng làm đồ uống. Cà phê đã trở thành một thức uống truyền thống của người Ả Rập và là nơi trồng cà phê độc quyền với trung tâm giao dịch cà phê là thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay. Người Ả Rập rất tự hào về phát minh ra loại thức uống này và giữ bí mật để bảo tồn độc quyền về một loại sản phẩm. Họ đưa ra những chế tài rất chặt chẽ trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê nhưng nó vẫn được bí mật đưa ra ngoài.
![]() |
Bản đồ khu phân bố cây cà phê trên thế giới |
Cà phê ( coffea) là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảo (Rubiaceae). Họ này là một trong những họ thực vật có nhiều chi (68 chi) thuộc vùng nhiệt đới. Chi cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm trong đó có 2 loài có chứa caffein trong hạt và mang lại hiệu quả kinh tế đó là cà phê vối và cà phê chè . Ngoài ra cây cà phê mít cũng mang lại hiệu quả kinh tế nhưng loài này ít phổ biến hơn. Các loài còn lại tuy thuộc chi cà phê nhưng khác xa với những cây cà phê thường trồng, vì vậy cây cà phê vối và cà phê chè thường gọi chung là cây cà phê.
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất ba-zan là một trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê, vì các đặc điểm lý hóa tính tốt, và tầng dày của loại đất này. Yêu cầu cơ bản của đất trồng cà phê là có tầng sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt (không bị úng, lầy). Các loại đất thường thấy ở Việt Nam ở trên các vùng cao như granit, sa phiến thạch, phù sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc tụ... đều trồng được cà phê. Ở cà phê vườn có khả năng trồng được cả ở nơi có đá lộ đầu, ở những nơi đất dốc vẫn trồng được cà phê nếu làm tốt công trình chống xói mòn. Dù trồng ở trên loại đất nào nhưng vai trò của con người có tính quyết định trong việc duy trì, bảo vệ nâng cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất ba-zan, nếu cà phê không được chăm sóc tốt vẫn dẫn tới hiện tượng cây mọc còi cọc, năng suất thấp. Ngược lại ở những nơi không phải là đất ba-zan nếu đảm bảo được đủ lượng phân hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt cây đậu đỗ, phân xanh trồng xen, tủ gốc tốt cùng các biện pháp thâm canh tổng hợp khác như tưới nước vẫn có khả năng tạo nên các vườn cà phê có năng suất cao.
Không phải vùng nào ở trên trái đất cũng trồng được cà phê. Ngoài yếu tố đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một số yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh sáng, gió.
- Nhiệt độ:Nói chung trong phạm vi nhiệt độ tương đối rộng từ 50C đến 320C cây cà phê vẫn có khả năng tồn tại, sinh trưởng và phát triển. Song phạm vi nhiệt độ phù hợp đối với từng giống cà phê có khác nhau.
Cà phê chè ưa nơi mát và hơi lạnh. Phạm vi thích hợp từ 180C - 250C, thích hợp nhất từ 20 - 220C. Do yêu cầu về nhiệt độ như vậy nên cà phê chè thường được trồng ở miền núi có độ cao từ 600 - 2.500 m (nguyên quán cà phê chè là ở Ethiopie nơi có độ cao trên dưới 2.000 m). Các nước trồng cà phê chè có phẩm vị thơm ngon như: Kenya,Tanzania, Ethiopie, Côlombia thường được trồng ở nơi có độ cao từ 800 m trở lên. Ngược lại cà phê vối thích ở nơi nóng ẩm. Phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 22 - 260C, song giới hạn nhiệt độ thích hợp nhất từ 24 - 260C. Nhiệt độ giảm xuống tới 00C làm thui cháy các đọt non, nếu kéo dài làm cháy cả lá già đặc biệt là vùng hay xuất hiện sương muối. Gió rét và gió nóng đều bất lợi đối với sinh trưởng của cây cà phê.
- Lượng mưa:Lượng mưa cần thiết đối với cây cà phê chè thường 1.300 mm - 1.900 mm, còn đối với cà phê vối cần từ 1.300 - 2.500 mm. Nếu lượng mưa được phân bổ tương đối đều trong năm có một mùa khô hạn ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch, nhiệt độ thấp thì thuận lợi cho quá trình phân hóa mầm hoa của cây cà phê.
Xem thêm: Top 25+ Cây Cảnh Phong Thủy Bàn Làm Việc Mang Lại May Mắn, Tài Lộc 2022
Đối với cà phê mít có yêu cầu về nhiệt độ và lượng mưa tương tự như cà phê vối. Song cây cà phê mít có bộ rễ ăn sâu, vì vậy có thể trồng ở những nơi có lượng mưa ít hơn.
Nhìn chung, ở nước ta lượng mưa phân bố không đều. Lượng mưa tập trung khoảng 70 - 80% vào trong mùa mưa gây ra hiện tượng thừa nước. Mùa khô thường kéo dài từ 3 - 5 tháng, nhưng lượng nước mưa chỉ chiếm từ 20 - 30%, do vậy có nhiều nơi cây cà phê thiếu nước nghiêm trọng đặc biệt là các tỉnh ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Để khắc phục hiện tượng này, vấn đề tủ gốc giữ ẩm, đai rừng phòng hộ, cây che bóng và tưới nước có một ý nghĩa quan trọng.
- Ấm độ:Ẩm độ của không khí phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây cà phê. Đặc biệt là giai đoạn cà phê nở hoa cần phải có ẩm độ cao, do đó tưới nước bằng biện pháp phun mưa rất thích hợp cho quá trình nở hoa của cà phê. Ẩm độ quá thấp cộng với điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao dẫn tới hậu quả làm cho các mầm, nụ hoa bị thui, quả non bị rụng.
- Ánh sáng:Cà phê chè là loại cây thích ánh sáng tán xạ (nguồn gốc mọc trong rừng thưa tại châu Phi), ánh sáng trực xạ làm cho cây bị kích thích ra hoa quá độ dẫn tới hiện tượng khô cành, khô quả, vườn cây xuống dốc nhanh, ánh sáng tán xạ có tác dụng điều hòa sự ra hoa, phù hợp với cơ chế quang hợp tạo thành và tích lũy chất hữu cơ có lợi cho cây cà phê, giữ cho vườn cây lâu bền, năng suất ổn định.
Cà phê vối là cây thích ánh sáng trực xạ yếu (nguyên quán cà phê vối mọc rải rác ven Rừng Châu Phi). Ở những nơi có ánh sáng trực xạ với cường độ mạnh thì cây cà phê vối cần lượng cây che bóng để điều hòa ánh sáng, điều hòa quá trình quang hợp của vườn cây.
- Gió:Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê. Gió quá mạnh làm cho lá bị rách, rụng lá, các lá non bị thui đen, gió nóng làm cho lá bị khô héo. Gió làm tăng nhanh quá trình bốc thoát hơi nước của cây và đất đặc biệt là trong mùa khô. Vì vậy cần giải quyết trồng tốt hệ đai rừng chắn gió chính và phụ; cây che bóng để hạn chế tác hại của gió. Đai rừng chắn gió và cây che bóng còn có tác dụng hạn chế hình thành và tác hại của sương muối, ở những vùng có gió nóng, đai rừng còn có tác dụng điều hòa nhiệt độ trong lô trồng.
Cây cà phê xuất hiện đầu tiên ở Ethotipia và khu vực Arap sau đó bắt đầu được trồng nhiều nơi trên thế giới.
Từ khu vực nhiệt đới Châu Phi, khu vực phân bố của cây cà phê ngày càng mở rộng bằng con đường di cư. Sự di cư của sinh vật gồm hai quá trình, đó là: phát tán nòi giồng ra ngoài khu vực phân bố và tự nhiên hóa vùng mới.
Sự phát tán của thực vật không chỉ phụ thuộc vào điều kiện môi trường mà còn phụ thuộc vào tình chất phát tán phong phú của thực vật tức là phụ thuộc vào biện pháp di cư dưới dạng hạt hay bào tử. Các dạng phát tán đó là : phát tán nhờ gió, phát tán nhờ nước, phát tán nhờ động vật và phát tán nhờ con người. Ngày nay sự phát tán nhờ con người diễn ra mạnh mẽ ở nhiều loại cây trồng và cây cà phê cũng không phải là một ngoại lệ. Nói như vậy không có nghĩa là cây cà phê chỉ di cư nhờ con người mà còn nhờ nhiều sự phát tán khác.
Cây cà phê được người Châu Âu đem về trồng ở Hà Lan. Tuy nhiên nó đã không phát triển mạnh mẽ được. Cuối thế kỉ 19, chủ nghĩa thực dân phát triển mạnh mẽ, chính quyền thực dân phương Tây đã đem trồng cây cà phê ở nhiều nước thuộc địa, đặc biệt là khu vực nhiệt đới.
Điều kiện quần xã sinh vật nơi thực vật di cư tới cũng đóng vai trò rất quan trọng đến sự di cư của nó. Trong quá trình di cư loài bao giờ cũng gặp những chướng ngại vật. Các chướng ngại vật đó có thể là chướng ngại vật địa hình, chướng ngại vật về điều kiện sinh thái, đất đai, chướng ngại vật về sinh học, độ dày đặc của thảm thực vật...Các loài di cư phải vượt qua các chướng ngại vật này mới có thể tồn tại và phát triển ở vùng mới.
Dựa trên cơ cở đó, sự di cư của cây cà phê bằng con đường phát tán nhờ nước và các sự phát tán khác là rất hạn chế. Bỡi lẽ đối với những loài thực vật sống trên cạn, biển là chướng ngại vật không thể vượt qua. Các chướng ngại về điều kiện sinh thái có ảnh hưởng rất lớn đến sự di cư cũng như sự phát triển của cây cà phê ở vùng mới. Cây cà phê là loài cây nhiệt đới, vì vậy khi được chính quyền thực dân đem trồng ở các nước thuộc địa thuộc khu vực nhiệt đới nó đã phát triển rất mạnh mẽ. Ngược lại, khi đem trồng ở Hà Lan (Châu Phi) cây cà phê lại phát triển không tốt bởi vì Châu Âu là khu vực ôn đới mà điều kiện khí hậu ôn đới không thể đáp ứng được cho sự phát triển của cây cà phê.
Như vậy từ Châu Phi, cây cà phê đã được trồng và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là khu vực nhiệt đới: Braxin, Việt Nam, Venezuela, Ấn Độ, Arập, Indonesia…
Khoảng nửa sau thế kỷ XIX, người phương Tây đưa cây cà phê sang trồng ở Việt Nam. Cây cà phê ở Việt Nam có nguồn gốc từ Indônexia và Côngô sang.( bản đồ)
Cây cà phê được trồng lần đầu tiên là ở khu vực phía Bắc, chủ yếu là cây cà phê chè.Sau đó, cây cà phê được trồng mở rộng vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh...
Sau một thời gian, thực dân phương Tây thấy giống cà phê chè khôngmang lại hiệu quả kinh tế caovì vậy đã đưa giống cà phê vối từ Côngô vào trồng ở Tây Nguyên. Sau một thời gian cây cà phê phát triển rất mạnh mẽ, diện tích cây cà phê ngày càng tăng.
Khu phân bố của cây cà phê là khu phân bố nhân tạo , bởi lẽ sự di cư cũng như phát triển của cây cà phê phụ thuộc rất nhiều vào con người.
Trên thế gới cây cà phê phân bố chủ yếu ở khu vực nhiệt đới. Ban đầu cây cà phê có chủ yếu ở Châu Phi. Sau đó,khu phân bố này ngày càng được mở rộng. Một khu phân bố mở rộng hay thu hẹp chủ yếu dựa vào các yếu tố sau đây: yếu tố địa hình, yếu tố khí hậu, yếu tố đất đai, yếu tố lịch sử, yếu tố sinh học – cạnh tranh loài và yếu tố con người.
Cây cà phê tuy có nguồn gốc từ Châu Phi nhưng ngày nay do nhiều lí do khách quan mà cây cà phê được trồng ở Châu Phi không đáng kể. Cây cà phê hiện này được trồng nhiều ở Trung và Nam Mỹ, Việt Nam, Ấn Độ, Indonexia, bán đảo Arap ...
Khu phân bố của cây cà phêlà khu phân bố nhận tạo chịu tác động rất nhiều từ con người. Vì vậy, cây cà phê ở Việt Nam chủ yếu là loài cây trồng, rất ít gặp trong rừng tự nhiên.
Cây cà phê ở Việt Nam có 3 loài : cây cà phê vối , cây cà phê chè, cây cà phê mít. Cây cà phê chè (9%) và cây cà phê vối (90%) được trồng khá phổ biến trong khi đó cây cà phê mít (1%) được trồng rất ít.
Tại Việt Nam, cây cà phê chè được trồng nhiều ở khu vực Bắc Bộ, đặc biệt lả khu vực Bắc Trung Bộ. Cây cà phê chè được trồng nhiều ở khu vực này là do yếu tố lịch sử. Cây cà phê chè được thực dân phương Tây đem vào trồng ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ 19, trồng ở các tu viện giáo đường ở Bắc Bộ, sau đó thực dân Pháp cho trồng ồ ạt ở khu vực Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... Sau chiến tranh các khu vườn cà phê chè vẫn tiếp tục được duy trì. Vì thế, khu vực này có sự phân bố cây cà phê chè rất cao.
Thực dân phương Tây nhận thấy việc trồng cà phê chè mang lại hiệu quả không cao vì vậy vào thập niên đầu thế kỉ XX, cây cà phê vối có nguồn gốc từ Côngô được đem sang Việt Nam. Và Tây Nguyên trở thành khu vực có diện tích trồng cà phê vối lớn nhất nước ta.
- Cây cà phê vối phát triển mạnh mẽ ở Tây Nguyên vì nơi đây có điều kiện đất đai rất lí tưởng cho cây cà phê, đó là đất bazan màu mỡ. Ngoài ra, cây cà phê vối được trồng ở Việt Nam có nguồn gốc từ rừng rậm Châu Phi, phân bố ở khu vực có độ cao trên 1000m, do đó ở Việt Nam không có nơi nào thích hợp hơn Tây Nguyên. Khu vực Trung du miền núi Bắc Bộ cũng có độ cao rất phù hợp với diều kiện của cây cà phê vối. Nhưng khí hậu ở đây không cho phép trồng cây cà phê vối. Bởi lẽ, khu vực này có một mùa đông lạnh và rét mà cây cà phê thì không thể chịu nhiệt độ quá thấp nên cây cà phê vối không được trồng nhiều ở vùng này.
- Cây cà phê chè rất ít được trồng ở Tây Nguyên, khu vực Đông Nam Bộ vì lượng mưa ở những khu vực này tương đối cao khoảng trên 2300mm, mà cây cà phê chè chỉ thích hơp ở những vùng có lượng mưa từ 1300mm – 1900mm.
Như vậy chính sự phức tạp về điều kiện sinh thái đã tạo ra sự phân hóa vùng phân bố cà phê ở nước ta. Khu vực phía Bắc là vùng phân bố chủ yếu của cây cà phê chè, khu vực phía Nam là vùng phân bố của cây cà phê vối.
Mức độ phân bố cây cà phê không chỉ phân hóa do điều kiện khí hậu, đất đai mà còn phân hóa do điều kiện địa hình và gió.
Cây cà phê phân bố chủ yếu ở khu vực đồi núi có địa hình cao trên 800m. Địa hình Việt Nam lại phân hòa rất phức tạp vì vậy đã đẫn đến sự phân bố không đều của cây cà phê giữa các vùng, tập trung ở những vùng có địa hình đồi núi như Tây Nguyên, phía bắc Bắc Trung Bộ.
Ngoài ra cây cà phê ở Việt Nam hầu như không trồng ở ven biển cũng như khu vực Duyên Hải Nam Trung Bộ vì điều kiện khí hậu ở đây không phù hợp, đặc biệt là gió. Gió là nhân tốt rất quan trọng ảnh hưởng đến cây cà phê, cây cà phê rất dễ bị ảnh hưởng của gió khô, gió nóng mà vùng ven biển thì gió quá mạnh, còn khu vực Nam Trung Bộ thì thường có những đợt gió Lào kéo dài vì vậy sự phân bố cây cà phê ở vùng này rất ít.
Mức độ phân bố cây cà phê ở nước ta tại vùng Đồng bằng sông Hông và vùng Tây Nam Bộ là thấp nhất vì địa hình ở đây chủ yếu là đồng bằng, đất phù sa không thích hợp cho cây cà phê.
Như vậy sự phân bố cây cà phê ở Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố về sinh thái có vai trò rất quan trọng.